Dù việc định giá tài sản trí tuệ đã bắt đầu tại Việt Nam trước khi Luật Sở hữu trí tuệ được ban hành vào năm 2005, đến nay hoạt động này vẫn tồn tại nhiều bất cập khiến quá trình thẩm định gặp khó khăn. Sau đây cùng phân tích một số bất cập khi muốn định giá tài sản trí tuệ theo quy định hiện hành.
Thiếu nhất quán trong định nghĩa tài sản trí tuệ
Hiện nay, định nghĩa về tài sản trí tuệ tại Việt Nam còn thiếu sự nhất quán trong các văn bản pháp luật. Bộ luật Dân sự năm 1995 định nghĩa tài sản trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp.
Tuy nhiên, Chuẩn mực kế toán số 04 năm 2001 sử dụng các thuật ngữ không chính xác so với quy định pháp lý hiện hành, như “bằng sáng chế” mà không phân biệt giữa tài sản trí tuệ thực sự và văn bằng bảo hộ. Điều này gây khó khăn trong việc định giá tài sản trí tuệ, đặc biệt là khi tài sản được bảo hộ dưới dạng giải pháp hữu ích hoặc chưa đăng ký bảo hộ.
Quy định về phân loại tài sản trí tuệ hiện còn mâu thuẫn
Chuẩn mực kế toán số 04 chỉ công nhận một số tài sản trí tuệ như sáng chế, quyền tác giả, và nhãn hiệu mua lại là tài sản cố định vô hình. Tuy nhiên, Thông tư 45/2013/TT-BTC của Bộ Tài chính lại coi tất cả các loại tài sản trí tuệ là tài sản cố định vô hình để định giá và tính vào giá trị doanh nghiệp, điều này không đồng nhất với quy định khác.
Cụ thể, chỉ dẫn địa lý không thuộc sở hữu của doanh nghiệp theo luật nhưng lại bị coi là tài sản cố định vô hình trong Thông tư 45/2013/TT-BTC. Hơn nữa, mặc dù giá trị thương hiệu được tính vào giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa theo Thông tư 127/2014/TT-BTC, Chuẩn mực kế toán số 04 lại không công nhận thương hiệu là tài sản cố định để định giá.
Thiếu nhất quán trong phương pháp định giá tài sản trí tuệ
Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13 đề cập đến các phương pháp chi phí tái tạo và chi phí thay thế. Tuy nhiên, các quy định về kế toán và cổ phần hóa lại chủ yếu sử dụng phương pháp chi phí lịch sử, dựa trên chi phí đã phát sinh trước đó. Ví dụ, giá trị bản quyền hay bằng sáng chế được xác định dựa trên chi phí đã chi cho việc có được quyền này, trong khi giá trị thương hiệu tính cả chi phí cho sáng chế, xây dựng, và bảo vệ nhãn hiệu.
Chuẩn mực kế toán số 04 không cho phép tính vào giá trị tài sản trí tuệ những chi phí như thành lập doanh nghiệp, đào tạo nhân viên, và quảng cáo trước khi doanh nghiệp đi vào hoạt động. Ngược lại, Thông tư 127/2014/TT-BTC cho phép tính các chi phí này khi xác định giá trị thương hiệu trong cổ phần hóa doanh nghiệp. Sự khác biệt này gây khó khăn trong việc áp dụng nhất quán các phương pháp chi phí để định giá tài sản trí tuệ.
Thiếu quy định về việc định giá tài sản trí tuệ khi thực hiện góp vốn để thành lập doanh nghiệp
Mặc dù việc góp vốn bằng tài sản trí tuệ, đặc biệt là thương hiệu, đã trở nên phổ biến từ những năm 1990, các quy định pháp lý vẫn chưa theo kịp thực tiễn. Doanh nghiệp Việt Nam thường tập trung vào giá trị tài sản hữu hình mà bỏ qua tài sản trí tuệ. Chưa có hướng dẫn rõ ràng về việc góp vốn hoặc nhận góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu, dẫn đến nhiều vướng mắc chưa được giải quyết.
Pháp luật về hạch toán kế toán tài sản của DN giúp định giá tài sản trí tuệ còn bất cập
Theo Chuẩn mực kế toán số 04, không bao gồm tên thương mại và một số loại tài sản trí tuệ khác như nhãn hiệu hàng hóa do doanh nghiệp tạo ra. Điều này gây khó khăn cho việc định giá tài sản trí tuệ, ảnh hưởng đến các hoạt động như mua bán, sáp nhập, và phát hành chứng khoán. Sự thiếu đồng nhất giữa các quy định kế toán và cổ phần hóa dẫn đến cách tiếp cận khác nhau trong việc xác định giá trị tài sản trí tuệ, gây thiệt hại cho doanh nghiệp khi sử dụng phương pháp chi phí quá khứ.
Pháp luật về giao dịch bảo đảm định giá tài sản trí tuệ còn thiếu sót
Mặc dù Bộ luật Dân sự 2005 cho phép quyền sở hữu trí tuệ làm tài sản bảo đảm, các văn bản pháp lý như Luật Sở hữu trí tuệ và các hướng dẫn thi hành chưa đề cập đến việc thế chấp quyền sở hữu trí tuệ. Các quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm tài sản trí tuệ cũng không thống nhất và thiếu sự hướng dẫn chi tiết, gây khó khăn trong việc sử dụng tài sản trí tuệ làm tài sản thế chấp khi vay vốn. Điều này làm cho việc tiếp cận vốn qua tài sản trí tuệ trở nên khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh nợ xấu gia tăng và các ngân hàng trở nên thận trọng hơn.
Xem thêm : Top 3 lý do tại sao nên đăng ký sáng chế ra nước ngoài?
Trên đây là một số bất cập khi muốn định giá tài sản trí tuệ hiện nay. Nếu cần được tư vấn các vấn đề liên quan đến định giá tài sản trí tuệ, hãy liên hệ với Mark Dealer theo số Hotline 077 780 8888 hoặc để lại bình luận bên dưới bài viết, chúng tôi luôn sẵn sàng hỗ trợ!