Khi muốn chuyển giao quyền sở hữu sáng chế, các bên liên quan không chỉ phải hiểu rõ về quyền mà còn phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Điều này đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng và tuân thủ các quy định để đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong giao dịch. Vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên cụ thể như thế nào? Cùng tìm hiểu qua bài viết sau đây!
Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển giao quyền sở hữu sáng chế
Quyền của bên chuyển giao
Đầu tiên, nhận phí chuyển giao, phí này được xác định dựa trên thỏa thuận giữa các bên, bao gồm cả mức độ và phương thức thanh toán.
Thứ hai, bên được chuyển quyền có quyền hạn chế không chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho bất kỳ bên thứ ba nào.
Thứ ba, bên chuyển quyền sử dụng sáng chế có quyền tiến hành kiểm tra sáng chế để đảm bảo rằng sản phẩm hoặc quy trình sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng.
Nghĩa vụ của bên chuyển giao
Đầu tiên, chỉ có thể chuyển quyền sử dụng sáng chế trong phạm vi được bảo hộ theo quy định của pháp luật và trong thời gian được bảo hộ.
Thứ hai, phải đảm bảo rằng việc chuyển quyền không gây ra bất kỳ tranh chấp nào với bên thứ ba. Trong trường hợp có tranh chấp với bên thứ ba, bên chuyển quyền có trách nhiệm giải quyết tranh chấp để bảo vệ lợi ích của bên nhận quyền.
Thứ ba, bên chuyển quyền không được áp đặt những điều khoản hạn chế không hợp lý đối với quyền của bên nhận quyền, đặc biệt là những điều khoản không phản ánh quyền lợi của bên chuyển quyền.
Thứ tư, việc đăng ký hợp đồng không được coi là bắt buộc đối với bên nhận quyền.
Thứ năm, bên nhận quyền phải tuân thủ các quy định về thuế theo Quy định về Quyền và Nghĩa vụ. Quyền của bên nhận quyền bao gồm việc sử dụng sáng chế theo hợp đồng trong phạm vi và thời gian được bảo hộ.
Cuối cùng, trong trường hợp được sử dụng độc quyền, bên nhận quyền có quyền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho bên thứ ba (hợp đồng li-xăng thứ cấp) nếu có sự đồng ý từ chủ sở hữu sáng chế.
Nghĩa vụ của bên nhận chuyển giao quyền sở hữu sáng chế
Đầu tiên, không có nghĩa vụ phải đăng ký hợp đồng nếu bên chuyển quyền không yêu cầu điều này.
Thứ hai, phải trả các khoản phí li-xăng cho bên chuyển quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Bên cạnh đó, theo Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không được chứa các điều khoản hạn chế không hợp lý đối với quyền của bên nhận quyền, đặc biệt là những điều khoản không phản ánh quyền của bên chuyển quyền. Cụ thể:
a) Cấm bên nhận chuyển giao cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp hoặc buộc phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển quyền các cải tiến đó;
b) Hạn chế bên nhận chuyển giao xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ đến các vùng lãnh thổ không phải là nơi bên chuyển quyền nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp;
c) Yêu cầu bên nhận chuyển giao phải mua các nguyên liệu từ bên chuyển quyền mà không liên quan đến chất lượng hàng hoá hoặc dịch vụ;
d) Cấm bên nhận chuyển giao khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền chuyển giao.
Theo Điều 3 của Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ, những điều khoản trong hợp đồng thuộc các trường hợp quy định tại Điều 144 nếu chứa các điều khoản hạn chế không hợp lý đối với quyền của bên nhận chuyển giao sẽ bị vô hiệu.
Như vậy, việc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế không chỉ tạo điều kiện cho việc khai thác tối đa lợi ích từ sáng chế mà còn đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong các giao dịch thương mại.
Có thể nói, việc chuyển giao quyền sở hữu sáng chế không chỉ là quá trình đơn giản mà còn là một trách nhiệm pháp lý quan trọng của các bên liên quan. Việc tuân thủ quy định pháp luật và thực hiện đúng nghĩa vụ khi chuyển giao quyền sở hữu sáng chế không chỉ là bảo vệ quyền lợi của mỗi bên mà còn là bảo đảm sự phát triển bền vững của cả hệ thống Sở hữu Trí tuệ.